Vai trò của Simethicone trong nội soi đường tiêu hóa và rối loạn chức năng tiêu hóa
1. Simethicone trong nội soi đường tiêu hóa trên
Ngày nay, kỹ thuật nội soi đường tiêu hóa trên vẫn tiếp tục phát triển, không chỉ là xét nghiệm chẩn đoán chuẩn cho các bệnh đường tiêu hóa trên, (Hình 1) mà còn được dùng làm điều kiện cho một số phương pháp điều trị, ví dụ như, cầm máu đường tiêu hóa trên, cắt bỏ khối u, rất quan trọng trong nong hoặc đặt stent khoang dạ dày hẹp. Tuy nhiên, việc sử dụng thực phẩm, hay sự phá bọt và bong bóng (có nguồn gốc từ khí bên trong đường ruột kết hợp với dịch dạ dày, hoặc dịch mật, Hình 2) có thể gây ra đau bụng, suy yếu niêm mạc trực quan và ảnh hưởng đến độ chính xác chẩn đoán. Vì vậy, nên ăn chay ít nhất 6 – 8 giờ và / hoặc sử dụng các loại thuốc prokinetic (erythromycin tiêm tĩnh mạch) hoặc chống tạo bọt (simethicone đường uống) trước khi áp dụng phương pháp này.
Hình 1: Hình ảnh niêm mạc đường tiêu hóa trên (thực quản, dạ dày và các bệnh tá tràng) khi nội soi đường tiêu hóa trên
Hình 2: Hình ảnh bọt khí và bong bóng bên trong đường ruột làm giảm khả năng quan sát trong khi nội soi đường tiêu hóa trên.
Simethicone (polydimethylsiloxan, kết hợp với silicon dioxide) là tác nhân phá bọt, không vị, không mùi, không được hấp thu qua niêm mạc đường tiêu hóa, hiếm khi có tương tác thuốc và có thể dùng đến 900 mg/ngày mà không gây bất kỳ độc tính nào. Simethicone đóng vai trò chủ yếu trong lòng đường tiêu hóa với chức năng chống tạo bọt và bảo vệ niêm mạc dạ dày. Nó hoạt động bằng cách làm giảm sức căng bề mặt của bong bóng khí bằng cách gom lại các bong bóng nhỏ và sau đó có thể dễ dàng loại bỏ khỏi đường tiêu hóa. Do đó, việc sử dụng simethicone trong nội soi đường tiêu hóa trên cho thấy hiệu quả tốt trong việc loại bỏ bọt và bong bóng khí (Hình 3).
Hình 3: Hiệu quả giữa việc sử dụng Simethicone so với dùng nước để loại bỏ bọt khí và bong bóng trong dạ dày tá tràng khi nội soi đường tiêu hóa trên..
Vào những năm 1950, dung dịch simethicone đường uống được chú ý đến như là một hoạt chất chống tạo bọt ở phương pháp sử dụng trước đó trong các nghiên cứu không đối chứng. Sau đó, 2 nghiên cứu mù ngẫu nhiên đôi nhỏ được tiến hành vào năm 1967 và 1978, cho thấy dùng simethicone trước khi nội soi có thể làm giảm đáng kể lượng bọt khí và bong bóng che khuất. Năm 1992, Bertoni và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu đối chứng-giả dược mù đôi ngẫu nhiên với 330 người tham gia, và cho thấy rằng dung dịch simethicone 65 mg hay 195 mg trong 90 ml nước được dùng trước khi nội soi đường tiêu hóa trên giúp tăng cường khả năng hiển thị nội soi bằng cách; giảm dần các bọt khí và bong bóng che khuất trong dạ dày và tá tràng. Kết quả cũng cho thấy simethicone làm giảm đáng kể số lượng bệnh nhân cần simethicone bổ trợ làm sạch đường tiêu hóa.
Sau đó, vào năm 2009, một thử nghiệm đối chứng – giả dược, mù đôi, ngẫu nhiên có định hướng được thực hiện bởi Keeratichananont và các cộng sự, với 121 người tham gia nội soi đường tiêu hóa trên (EDG), nhóm dùng dung dịch simethicone (2 ml tương đương với 133,3 mg) hoặc nhóm giả dược với 60 ml nước, 15 – 30 phút trước khi nội soi đường tiêu hóa trên. Các nhà nghiên cứu cho thấy, nhóm dùng dung dịch simethicone giúp tăng cường đáng kể khả năng hiển thị nội soi trong tất cả các vùng của đường tiêu hóa trên tốt hơn so với nhóm dùng giả dược, được chứng minh qua việc giảm số điểm tích lũy trung bình của bọt khí và bong bóng (6,83 + 2,4 so với 11,05 + 2,6, p < 0,001). Hơn nữa, số lượng bệnh nhân, những người cần bổ trợ simethicone để làm sạch thấp hơn đáng kể (17,5% so với 74,1%, p < 0,001) và trung bình của các lần bổ trợ để làm sạch giúp cho bọt khí che khuất còn lại ngắn hơn (0 giây so với 19 giây, p < 0,001), tương ứng với nhóm dùng simethicone. Hơn nữa, kết quả cho thấy rằng simethicone giúp tăng cường sự tương thích nội soi đáng kể bằng cách hiển thị tỷ lệ cao hơn với khả năng hiển thị nội soi từ tốt đến rất tốt trong nhóm này so với nhóm dùng giả dược (70,0% so với 15,4%, p < 0,001). Ngoài ra, các bệnh nhân tự báo cáo về mức độ nghiêm trọng của đau bụng, buồn nôn và nôn sau phẫu thuật cũng thấp hơn ở nhóm dùng simethicone, cũng như việc không có sự khác biệt đáng kể về tác dụng phụ giữa các nhóm nghiên cứu.
Sau đó, vào năm 2011, Ahsan và cộng sự tiến hành thử nghiệm mù đôi giả dược – đối chứng ngẫu nhiên trên 173 bệnh nhân, trong đó nhằm đánh giá hiệu quả của viên nén nhai Simethicone (40 mg) ở phương pháp trước đó được dùng với 30 ml nước trong vòng 15 – 30 phút trước khi nội soi đường tiêu hóa trên. Họ quan sát thấy simethicone có thể làm giảm đáng kể lượng bọt khí trong dạ dày và rút ngắn thời gian nội soi tốt hơn so với giả dược.
Vào năm 2014, Chang và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu có định hướng ở 1.849 bệnh nhân để đánh giá hiệu quả của thuốc dùng trước khi gây mê với dung dịch simethicone 100 mg đơn chất so với kết hợp 100 mg simethicone và 200 mg N-acetylcysteine trong 100 ml nước trước khi nội soi đường tiêu hóa trên. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng 100 mg dung dịch simethicone đơn chất có thể cải thiện đáng kể khả năng hiển thị nội soi so với sự kết hợp của hai loại thuốc này. Gần đây, một phân tích tổng hợp cũng như tổng quan hệ thống từ mười nghiên cứu có định hướng, thực hiện trên 1.541 bệnh nhân được thực hiện bởi Chen và cộng sự khẳng định rằng có sự cải thiện đáng kể về mặt thống kê trong khả năng hiển thị nội soi với thuốc dùng trước khi gây mê sử dụng simethicone trong ít nhất 30 ml nước trước khi nội soi đường tiêu hóa trên.
Kết luận
Simethicone được thống kê dùng trong làm sạch đường tiêu hóa, đã chứng minh hiệu quả tốt khi phá vỡ các bọt khí và bong bóng trong suốt quá trình nội soi đường tiêu hóa trên. Hơn nữa, dùng simethicone trước nội soi có thể tăng cường khả năng hiển thị nội soi ở tất cả các vùng trên đường tiêu hóa trên, cải thiện cả kết quả nội soi và sự hài lòng của bệnh nhân, thêm vào đó rút ngắn thêm thời gian dùng simethicone bổ trợ làm sạch đường tiêu hóa. Do đó, simethicone dùng đường uống được chứng minh là chất chống tạo bọt tốt cho nội soi đờng tiêu hóa trên.
2. Simethicone trong điều trị rối loạn chức năng tiêu hóa
Rối loạn chức năng tiêu hóa (FD), là một loại rối loạn, được cho có nguồn gốc từ dạ dày ruột kết, là một trong những chẩn đoán cuối cùng phổ biến nhất ở những bệnh nhân có các triệu chứng khó tiêu mãn tính. Tiêu chuẩn chẩn đoán phổ biến hiện nay cho chứng khó tiêu được dựa trên các tiêu chí Rome III như trong bảng 1.
Bảng 1: Tiêu chuẩn chẩn đoán Rome III trong điều trị rối loạn chức năng tiêu hóa (FD)
Biểu chuẩn chẩn đoán Rome III trong điều trị rối loạn chức năng tiêu hóa (FD)
- Đầy bụng khó chịu sau ăn, xảy ra sau bữa ăn thông thường, ít nhất là vài lần mỗi tuần.
- Cảm thấy thường xuyên nhanh no khi ăn, ít nhất là vài lần mỗi tuần.
- Đau bụng trên ngay vùng thượng vị ở mức độ ít nhất là vừa phải, ít nhất một lần mỗi tuần.
- Cảm giác bỏng rát vùng thượng vị.
- Không có bằng chứng nào về rối loạn cấu trúc (ngay cả nội soi đường tiêu hóa trên) được xem như là các triệu chứng.
Rối loạn chức năng tiêu hóa là một bệnh kinh niên, thời gian kéo dài bệnh khi bệnh nhân không có triệu chứng gì sau đợt tái phát triệu chứng, và chỉ có 50% các trường hợp thuyên giảm bệnh mãn tính. Mặc dù, rối loạn chức năng tiêu hóa không gây ra tình trạng làm đe dọa tính mạng, và nó đã được chứng minh không liên quan đến bất kỳ sự gia tăng tỷ lệ tử vong nào, nhưng rối loạn chức năng tiêu hóa gây ảnh hưởng tiêu cực mạnh mẽ đến chất lượng sức khỏe cuộc sống của bệnh nhân so với những người bình thường.
Sinh lý bệnh tiềm ẩn trong rối loạn chức năng tiêu hóa có lẽ là do nhiều yếu tố, điều này có liên quan đến sự kết hợp của sự suy giảm chức năng tương tác giữa não – ruột, quá mẫn cảm với axit hydrochloric (HCl) của dạ dày, các bữa ăn nhiều chất béo, hoặc trướng bụng do thức ăn & bọt khí, không dung nạp hoặc dị ứng thức ăn, giảm sự phục hồi đáy dạ dày, làm chậm thời gian làm rỗng dạ dày, điều trị H. pylori, dùng thuốc cũng như cảm giác căng thẳng. Do đó, cần hiểu rõ tất cả sinh lý bệnh học, tiến triển của bệnh, cách dùng thuốc và thay đổi cách sống, là rất cần thiết để đạt hiệu quả đáp ứng điều trị.
Như chúng ta biết, các liệu pháp ức chế acid bằng thuốc ức chế bơm proton hoặc thuốc kháng histamin, thuốc hỗ trợ nhu động, thuốc giảm lo âu / chống trầm cảm cùng với simethicone là tất cả các loại thuốc dùng trong rối loạn chức năng tiêu hóa. Tuy nhiên, thuốc chữa bệnh tốt nhất hiên nay không có sẵn, do đó việc điều trị dựa trên các đặc điểm của từng bệnh nhân, đây là cách tốt nhất.
Simethicone giúp làm giảm bọt khí và bong bóng trong dạ dày, vì vậy có thể làm giảm bớt trướng căng hyper dạ dày do khí dạ dày. Ngoài ra, simethicone có thể kích thích nhu động ruột, (bằng cách tăng tốc độ di chuyển của khí đường ruột) cũng như tạo lớp bảo vệ niêm mạc dạ dày (ngăn chặn tổn thương dạ dày do axit HCl và muối mật). Năm 1999, Holtmann và cộng sự tiến hành các nghiên cứu mù đôi ngẫu nhiên có định hướng đầu tiên trên 177 bệnh nhân rối loạn chức năng tiêu hóa, với mục đích để so sánh hiệu quả của Simethicone 84 mg so với thuốc hỗ trợ nhu động (cisaprid) 10 mg trong 4 tuần. Nghiên cứu cho thấy rằng viên nén simethicone giúp hỗ trợ các triệu chứng khó tiêu toàn diện so với cisaprid mà không có bất kỳ tác dụng phụ nào. Hơn nữa, simethicone có thể cải thiện các triệu chứng khó tiêu trong 2 tuần đầu điều trị tốt hơn so với cisaprid đáng kể (nhóm dùng simethicone có tổng số triệu chứng giảm từ 14,0 ± 3,7 còn 5,4 ± 3,0 so với nhóm cisaprid giảm từ 14,1 ± 3,3 còn 7,7 ± 3.4, p < 0,001). Sau nghiên cứu này, vào năm 2002, một thử nghiệm đối chứng – giả dược mù đôi ngẫu nhiên có định hướng được thực hiện bởi Holtmann và cộng sự trên 185 bệnh nhân rối loạn chức năng tiêu hóa được chọn ngẫu nhiên và được điều trị bằng phương pháp đại diện đôi sử dụng simethicone 105 mg, cisaprid 10 mg hoặc giả dược trong 8 tuần. Kết quả cho thấy rằng điều trị bằng viên nén Simethicone hoặc cisaprid đều có ý nghĩa (tất cả các giá trị p-value < 0,0001) tốt hơn so với dùng giả dược để kiểm soát triệu chứng, và khi kết hợp cùng nhau, simethicone cũng tốt hơn đáng kể so với nhóm dùng thuốc hỗ trợ nhu động trong 2 tuần đầu điều trị (p = 0,0007).
Khi sử dụng kết hợp với các thuốc khác trong hai nghiên cứu đối chứng – giả dược có định hướng gần đây đã cho thấy rằng sự kết hợp giữa simethicone (45 – 90 mg) với than hoạt tính hoặc magiê oxit có hiệu quả đáng kể so với nhóm dùng giả dược trên các triệu chứng chung của bệnh nhân bị rối loạn chức năng tiêu hóa.
Kết luận
Rối loạn chức năng tiêu hóa vẫn là bệnh dạ dày mạn tính thường gặp nhất trong tiến trình tự nhiên. Cho đến nay, có rất nhiều loại thuốc điều trị, nhưng những loại thuốc và chế độ ăn uống tốt nhất vẫn chưa được biết đến. Simethicone cho thấy có hiệu quả đáng kể trong điều trị để làm giảm các triệu chứng khó tiêu toàn diện. Do đó, Simethicone đơn chất hoặc kết hợp với các loại thuốc khác là có ích, và được xem là một lựa chọn điều trị tốt cho những bệnh nhân có biểu hiện rối loạn chức năng tiêu hóa.
Bài viết liên quan