Hai loại bệnh viêm ruột (IBD), bệnh viêm ruột Crohn (CD) và viêm loét đại tràng (UC), là các bệnh mãn tính và thường tái phát ảnh hưởng chủ yếu đến những người trẻ tuổi và dẫn đến suy giảm nghiêm trọng chất lượng cuộc sống. Cơ chế sinh bệnh của IBD không được làm rõ hoàn toàn nhưng người ta thường thừa nhận rằng nó có nguồn gốc từ sự kích hoạt không phù hợp hệ thống miễn dịch đường ruột bởi hệ vi sinh vật đường ruột liên quan yếu tố di truyền vật chủ và  ảnh hưởng của các yếu tố môi trường.

VAI TRÒ  HỆ VI SINH RUỘT ĐỐI VỚI BỆNH VIÊM  RUỘT IBD

SỰ THAM GIA CỦA HỆ VI SINH  TRONG SINH BỆNH HỌC IBD

Có nhiều lập luận ủng hộ vai trò của hệ vi sinh đường ruột trong sinh bệnh học IBD. Trong những năm qua, các nghiên cứu kết hợp rộng về hệ  gen đã cho phép xác định hơn 150 cấu trúc đa hình gen di truyền liên quan đến nguy cơ IBD, cho thấy vai trò chính của các tương tác giữa vi sinh vật – ký chủ trong sinh bệnh học IBD. Như một minh họa, tính đa hình có liên kết mạnh nhất với bệnh CD nằm ở gen Nod2 mã hóa một cảm biến nội bào thành một thành phần của thành vi khuẩn gọi là muramyl dipeptide.

Vai trò của dòng vi sinh trong phân bệnh nhân tái phát sau phẫu thuật của bệnh CD cũng hỗ trợ vai trò chính của hệ vi sinh là tác nhân gây viêm. Thật vậy, sau khi cắt bỏ đoạn ruột và kết nối hồi tràng, tái phát gần như phổ biến trong CD.

 Hiệu quả của kháng sinh trong điều trị lâm sàng trong IBD là ủng hộ vai trò của hệ vi sinh. Thuốc kháng sinh có tác dụng tích cực trong việc ngăn ngừa tái phát sau phẫu thuật ở CD (đặc biệt là nitroimidazoles) và trong điều trị bùng phát CD và UC. Thuốc kháng sinh cũng rất hiệu quả trong điều trị viêm túi hậu môn giả Pouchitis. Cơ chế sinh bệnh của IBD cũng như các phương pháp điều trị mới hầu hết được nghiên cứu trên các mô hình chuột. Điều thú vị là hầu hết các mô hình viêm đại tràng động vật này phụ thuộc vào sự hiện diện của hệ vi sinh vật đường ruột. Khi được duy trì không có mầm bệnh, động vật không phát bệnh, củng cố vai trò của hệ vi sinh liên quan bệnh viêm ruột. Cuối cùng, viêm đại tràng tự phát ở một số chuột biến đổi gen đã được chứng minh là có thể lây truyền sang chuột hoang dã (bình thường về mặt di truyền) thông qua hệ vi sinh vật đường ruột. Điều này cho thấy rằng, dưới ảnh hưởng của một nền tảng di truyền bất thường, hệ vi sinh có thể tự gây bệnh và hệ vi sinh là nhân tố chính trong sinh bệnh học IBD.

ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ VI SINH VẬT ĐƯỜNG RUỘT TRONG IBD

Rõ ràng là bệnh nhân IBD có hệ vi sinh với đa dạng sinh học giảm và độ ổn định thấp. Trong số các thay đổi được mô tả trong hệ vi sinh của bệnh nhân IBD, sự giảm vi khuẩn Firmicutes phylum và số lượng vi khuẩn enterobacteria tăng lên đã được công nhận nhất quán.

Những thay đổi cụ thể đối với bệnh nhân bị CD hồi tràng bao gồm giảm các chi chính của Firmicutes phylum, như Faecalibacterium và Roseburia và tăng số lượng Enterobacteriaceae và Ruminococcus gnavus. Những thay đổi cụ thể trong hệ vi sinh của bệnh nhân UC cũng đã được chỉ ra. Nhiều nghiên cứu báo cáo mật độ vi khuẩn khử sulfate tăng (như Desulfovibrio) có thể liên quan đến sinh bệnh học của UC, do khả năng tạo ra sulfide của chúng. Thật vậy, nồng độ sulfide trong phân của bệnh nhân UC cao hơn đáng kể so với những người đối chứng khỏe mạnh. Những thay đổi trong thành phần vi sinh vật đường ruột gây ra sự mất cân bằng giữa vi khuẩn hổ trợ viêm và kháng viêm với các hậu quả chức năng tiềm ẩn. Ví dụ, Faecalibacterium Prausnitzii, một thành viên chính của Firmicutes phylum, đã được chứng minh là có tác dụng chống viêm in vitro và in vivo. Do đó, số lượng vi khuẩn này thấp ở hệ vi sinh của bệnh nhân IBD có thể ảnh hưởng đến quá trình viêm. Mặt khác, số lượng vi khuẩn enterobacteria tăng lên, chẳng hạn như Escherichia coli, có thể kích hoạt và gây viêm

HỆ VI SINH  RUỘT LÀ MỤC TIÊU ĐIỀU TRỊ VÀ DẤU ẤN SINH HỌC

Dựa trên dữ liệu có giá trị liên quan đến hệ vi sinh vật đường ruột trong sinh bệnh học IBD, việc cố gắng sử dụng nó như một mục tiêu điều trị là hợp lý. Như đã đề cập ở trên, kháng sinh có một số hiệu quả trong các thiết kế điều trị lâm sàng cụ thể. Probiotic là công cụ tiềm năng để điều chỉnh hệ vi sinh. Các vi khuẩn cấu thành hệ vi sinh vật đường ruột. Về bản chất, rất nhanh chóng thích nghi với mọi thay đổi trong môi trường của chúng, là những mục tiêu điều trị IBD hấp dẫn. Thật vậy, dữ liệu được công bố cho thấy thành phần hệ vi sinh  thay đổi một thời gian dài trước khi tái phát bệnh. Do đó, nó có thể được sử dụng để dự đoán bùng phát bệnh, cho phép điều chỉnh cách điều trị và tránh xuất hiện các triệu chứng lâm sàng. Một số chủng đã cho thấy tác dụng có lợi trong việc ngăn ngừa tái phát UC nhẹ đến trung bình cũng như viêm túi hậu môn giả. Hệ vi sinh mất cân bằng, chính nó  đóng một vai trò nguyên nhân trong IBD, một chiến lược trị liệu căn bản có thể là thay đổi nó theo hướng có lợi .

KẾT LUẬN

Hệ vi sinh vật đường ruột là nhân tố chính trong sinh bệnh học viêm ruột, đáng chú ý là gây ra viêm. Nền tảng di truyền và các yếu tố môi trường có tác động lớn đến thành phần hệ vi sinh và tác động bất lợi của chúng trong IBD có thể được điều chỉnh một phần bởi hệ vi sinh. Điều quan trọng là những thay đổi môi trường gây ra viêm ruột có liên quan đến hệ vi sinh vật. Nhắm đến hệ vi sinh hay sử dụng các thành phần của nó làm mục tiêu hoặc công cụ trị liệu là một chiến lược đầy hứa hẹn trong chữa trị IBD.

Tài liệu tham khảoWorld digestive health day wdhd May 29, 2014  WGO  Handbook on Gut Microbes .THE GUT MICROBIOTA IN INFLAMMATION BOWEL DISEASES (https://www.worldgastroenterology.org/UserFiles/file/WDHD-2014-handbook-FINAL.pdf)

Bài viết liên quan